“Leo đâu?” cậu thở hổn hển. “Nhanh lên! Nhanh lên!”
Cả hai cô gái chạy đi thật nhanh.
“Percy đâu?” Annabeth hỏi. “Cả thần rừng nữa?”
Frank vịn đầu gối, cố gắng để thở. Quần áo của cậu vừa cứng vừa ẩm ướt, giống như chúng vừa được tắm trong tinh bột nguyên chất. “Ở trên boong. Họ vẫn ổn. Nhưng chúng ta đang bị theo dõi.”
Annabeth vọt qua cậu và vội vàng chạy một mạch lên hết ba tầng cầu thang. Hazel thở hổn hển chạy theo sau cô và Frank. Percy với Hedge nằm trên boong, trông họ vô cùng mệt mỏi và kiệt sức. Đôi giày của Hedge đã mất. Ông đang nhìn lên trời nhe răng cười, trong miệng vẫn lẩm bẩm “Tuyệt vời. thậttuyệt vời.” trên người Percy chi chít những vết cắt và vết xước, như thể cậu mới nhảy qua cửa sổ. Cậu không nói gì, nhưng cậu nắm tay Annabeth yếu ớt như muốn nói Luôn ở bên cạnh cậu, ngay cả khi thế giới này ngừng quay.
Leo, Piper và Jason, những người đang dùng bữa ở đại sảnh, chạy vội lên cầu thang. “Chuyện gì? Có chuyện gì?” Leo kêu gào, trên tay cậu vẫn cầm một miếng sandwich phô mai nướng đang ăn dở. “Các cậu thậm chí không cho tớ một giờ nghỉ trưa sao? đã có chuyện gì vậy?”
“Bị theo dõi.” Frank hét lại.
“Bị theo dõi bởi cái gì?” Jason hỏi.
“Tớ không biết.” Frank hổn hển nói. “Cá voi? Quái vật biển? Có lẽ là Kate và Porky!”
Annabeth thật sự muốn bóp cổ cậu trai này, nhưng cô vẫn không chắc bàn tay mình có thể vừa vặn với cái cổ dày cộm của cậu ta không. “Việc đấy hoàn toàn vô nghĩa. Leo, tốt nhất cậu nên đưa chúng ta ra khỏi đây.”
Leo kẹp miếng sandwich giữa hai hàm răng, làm điệu bộ như một cướp biển và vận hành bánh lái.
không lâu sau, Argo II đã bay lên bầu trời. Annabeth giữ vị trí đuôi tàu. cô không thấy bất cứ dấu hiệu nào của việc bị theo dõi bởi cá voi hay thứ gì khác, nhưng Percy, Frank và Hedge cũng bắt đầu hồi phục khi đường chân trời Atlanta chỉ còn là một vệt mờ ở phía xa xa.
“Charleston.” Percy nói khi đi khập khiễng quanh boong tàu như một ông lão. Cậu có vẻ run rẩy. “Hướng tới Charleston.”
“Charleston?” Jason nhắc lại cái tên kia như nó đã đem lại cho cậu những kí ức không vui. “Chính xác thìcậu đã tìm thấy gì ở Atlanta?”
Frank mở ba lô và bắt đầu lấy ra mấy món quà lưu niệm. “một ít mứt đào. Mấy cái áo thun. một quả cầu tuyết. Và, ừm, những cái khóa tay không-thực-sự-là-khóa-tay-Trung-Quốc.”
Annabeth buộc mình phải giữ bình tĩnh. “Tại sao cậu không bắt đầu phần đầu của câu chuyện trước và để việc cái ba lô của cậu qua một bên?”
Họ tụ tập ở sân lái để Leo có thể nghe được cuộc trò chuyện khi đang lái. Percy và Frank lần lượt kể những chuyện đã xảy ra ở thủy cung Georgia, HLV Hedge đôi khi cũng xen vào: “thật tuyệt vời!” hoặc “Sau đó tôi đã đá vào đầu cô ta!”
Ít nhất là huấn luyện viên dường như đã quên mất việc cô với Percy ngủ quên trong chuồng ngựa đêm hôm trước. Nhưng xét đến câu chuyện của Percy thì Annabeth có một vấn đề tồi tệ hơn để lo lắng thay vì chuyện bị cấm túc.
Khi Percy giải thích về những sinh vật biển bị giam cầm ở thủy cung, cô hiểu được tại sao cậu lại lo lắng đến thế.
“Điều đó thật khủng khiếp.” cô nói. “Chúng ta cần giúp đỡ chúng.”
“Chúng ta sẽ làm,” Percy hứa. “Vào đúng thời điểm. Nhưng chúng ta phải tìm ra cách. Tớ muốn…” Cậu lắc đầu. “Đừng bận tâm. Trước hết chúng ta phải đối phó với mớ tiền thưởng truy nã chúng ta.”
HLV Hedge có vẻ như không còn hứng thú với cuộc đối thoại – có lẽ vì nó không còn nói về ông – và lang thang đến mũi tàu, luyện tập mấy cú đá vòng cầu[1] rồi tự khen ngợi kĩ thuật của mình.
Annabeth nắm chặt chuôi dao găm của mình. “Treo thưởng truy nã chúng ta sao…cứ như thể chúng ta không đủ thu hút quái vật vậy.”
“Chúng ta sẽ có áp phích truy nã sao?” Leo hỏi. “Và chúng có tiền thưởng cho chúng ta, như phân chia bảng giá?”
Hazel nhăn mũi. “anh đang nói gì vậy?”
“Chỉ là tò mò không biết anh đáng giá bao nhiêu,” Leo nói. “Ý tớ là, tớ hiểu mình không đáng giá như Percy hay Jason, có lẽ…nhưng không biết tớ có giá trị như hai Frank, hay ba Frank không?”
“Này.” Frank phàn nàn.
“Thôi đi,” Annabeth ra lệnh. “Ít nhất chúng ta biết bước tiếp theo là đến Charleston, để tìm bản đồ.”
Piper dựa vào tấm bảng điều khiển. cô tết tóc bằng lông vũ trắng hôm nay, nó trông thích hợp với mái tóc nâu sẫm của cô. Annabeth tự hỏi không biết làm sao cô có thời gian để làm thứ đó. Annabeth chỉ có thể nhớ đến chải tóc mà thôi.
“Tấm bản đồ,” Piper nói. “Nhưng bản đồ gì?”
“Dấu hiệu Athena.” Percy cẩn thận nhìn Annabeth như thể cậu sợ mình đi quá giới hạn. cô trưng ra mộtvẻ nặng nề Tớ không muốn nói đến nó.
“Mặc kệ nó là gì,” cậu tiếp tục. “Chúng ta biết nó dẫn đến một cái gì đó quan trọng ở Rome, cái mà có thể hàn gắn được sự rạn nứt giữa người La Mã và người Hy Lạp.”
“Tai ương của lũ khổng lồ.” Hazel thêm vào.
Percy gật đầu “Và trong giấc mơ của tớ, hai gã khổng lồ song sinh đã nói điều gì đó về một bức tượng.”
“Ừm…” Frank lắc cái khóa tay không-thực-sự-là-khóa-tay-Trung-Quốc giữa mấy ngón tay cậu. “Theo như lời Phorcys, chúng ta sẽ điên đầu để tìm nó. Nhưng nó là cái gì?”
Mọi người đều nhìn Annabeth. Da đầu của cô râm ran như thể những suy nghĩ trong đầu của cô đang có khuynh hướng nhảy ra ngoài: một bức tượng…Athena…Hy Lạp và La Mã, cơn ác mộng của cô và cuộc tranh luận với mẹ cô. cô đã nhìn thấy các mảnh ghép được ghép lại với nhau như thế nào, nhưng côkhông thể tin nó lại là thật. Câu trả lời quá lớn, quá quan trọng và thật đáng sợ.
cô nhận thấy Jason đang quan sát mình như cậu biết chính xác những gì cô đang nghĩ và cũng chẳng ưa thích nó. cô không thể không tự hỏi: Tại sao cậu luôn làm cô cảm thấy lo lắng? Liệu cậu có thực sựđứng về phía cô? Hay đó chỉ là lời của mẹ cô nói…
“T-tớ sắp có câu trả lời,” cô nói. “Tớ sẽ biết nhiều hơn nếu chúng ta tìm thấy tấm bản đồ. Jason, cách cậu gọi tên Charleston…cậu từng đến đó sao?”
Jason lo lắng liếc nhìn Piper, mặc dù Annabeth không chắc chắn tại sao. “Phải.” Cậu thừa nhận. “Reyna và tớ đã có một nhiệm vụ ở đó khoảng một năm trước. Chúng tớ đã thu hồi được vũ khí Vàng Hoàng Gia từ C.S.S Hunley.”
“Cái gì?” Piper hỏi.
“Wow!” Leo nói. “Đó là con tàu ngầm quân sự thành công đầu tiên. Từ cuộc Nội chiến. Tớ luôn muốn được nhìn thấy nó.”
“Nó được thiết kế bởi các á thần La Mã,” Jason nói. “Nó cất giữ một ngư lôi bí mật bằng Vàng Hoàng Gia – cho đến khi bọn tớ tìm thấy chúng và đem về trại Jupiter.”
Hazel khoanh tay lại. “Vậy là người La Mã đã chiến đấu ở phe Liên Minh. Là một cô gái có bà ngoại nô lệ, em chỉ có thể nói…chẳng hay ho gì cả không?”
Jason đưa tay lên trước mặt, lật lòng bàn tay lên. “Bản thân anh cũng không hiểu rõ lắm. Nhưng khôngphải toàn bộ người Hy Lạp và La Mã đều đứng về hai phe khác nhau. Nhưng, đúng vậy. thật không hay ho gì. Đôi khi các á thần có lựa chọn sai lầm.” Cậu lúng túng nhìn Hazel. “Như chúng ta đôi khi cũng quá đa nghi. Và chúng ta đã nói mà không suy nghĩ.”
Hazel nhìn cậu. Từ từ cô nhận ra cậu đang xin lỗi mình.
Jason huých khuỷu tay vào người Leo.
“Au.” Leo hét lên. “Ý tớ là, ừm…đúng…lựa chọn sai lầm. Như là khi không tin tưởng anh em của bạn bè, những người mà, các cậu biết đấy, cần được giải cứu. Giả sử là thế.”
Hazel bĩu môi. “Được thôi. Quay trở lại với Charleston. anh đã nói là chúng ta nên kiểm tra lại con tàu ngầm kia phải không?”
Jason nhún vai. “À…anh nghĩ chúng ta nên tìm kiếm hai địa điểm ở Charleston. một là ở bảo tàng, nơi họ giữ Hunley__một trong số chúng. Nó chứa rất nhiều tàn tích từ hồi Nội chiến. Bản đồ có thể được giấu ở một trong số đó. Tớ biết cách bố trí. Tớ có thể dẫn một nhóm vào bên trong.”
“Tớ sẽ đi,” Leo nói. “Nghe có vẻ hay đấy.”
Jason gật đầu. Cậu quay sang nhìn Frank, người đang cố sức kéo mấy ngón tay của mình ra khỏi cái khóa tay Trung Quốc. “Cậu nên đi cùng, Frank. Chúng tớ cần cậu.”
Frank ngạc nhiên. “Tại sao? Có vẻ như tớ đã làm không tốt lắm khi ở thủy cung.”
“Cậu đã làm rất tốt.” Percy cam đoan với cậu. “Phải cần đến ba người chúng ta mới có thể đập vỡ tấm kính.”
“Hơn nữa, cậu là con trai thần Mars,” Jason nói. “Hồn ma của những kẻ bại trận phải phục tùng cậu. Và bảo tàng ở Charleston có vô số hồn ma quân Liên Minh. Chúng tớ cần cậu để chế ngự chúng.”
Frank nuốt nước bọt. Annabeth nhớ đến lời kể của Percy về việc Frank hóa thành con cá vàng khổng lồ và cô cố gắng không bật cười. cô sẽ không bao giờ có thể nhìn anh chàng to con này mà không nhớ tới loài cá vàng.
“Thôi được.” Frank dịu lại.” Đồng ý.” Cậu cau mày nhìn vào mấy ngón tay của mình và cố gắng kéo chúng ra khỏi cái khóa tay. “Ừm, làm thế nào các cậu___?”
Leo cười khúc khích “Này cậu trai, chưa từng thấy chúng trước đây sao? Có một mẹo đơn giản để lấy nó ra.”
Frank kéo mạnh lần nữa nhưng không thành công. Thậm chí ngay cả Hazel cũng cố nhịn cười.
Frank nhăn mặt như đang cố gắng tập trung. Đột nhiên cậu biến mất. trên boong nơi cậu đứng, mộtcon cự đà xanh[2] cúi người bên cạnh những cái khóa tay Trung Quốc.
“Làm tốt lắm, Frank Trương,” Leo nói cộc lốc, rồi làm theo điệu bộ của bác Chiron. “Đó là cách người ta giải quyết cái khóa tay Trung Quốc. Họ biến thành những con cự đà.”
Mọi người đều bật cười. Frank hóa lại hình người, nhặt mấy cái khóa tay lên rồi nhét vào ba lô. Cậu nở nụ cười ngượng ngùng.
“Dù sao,” Frank nói, lo lắng thay đổi chủ đề. “Bảo tàng là một nơi để tìm kiếm. Nhưng, ừm, Jason, cậu nói có tận hai chỗ cơ mà.”
Nụ cười Jason mờ đi. Dù cậu đang nghĩ đến cái gì, Annabeth đều có thể nói rằng nó hoàn toàn khônghay ho cho mấy.
“Phải,” Cậu nói. “Nơi đó, vào lúc tớ đến…cùng Reyna…” Cậu liếc nhìn Piper, sau đó nhanh chóng nóitiếp. “Bọn tớ đã nhìn thấy thứ gì đó trong công viên. một bóng ma hay là một dạng linh hồn, kiểu như một người phụ nữ miền Nam từ thời Nội chiến, phát sáng và trôi lềnh bềnh. Bọn tớ đã cố tiếp cận, nhưng nó biến mất mỗi khi bọn tớ đến gần. Sau đó Reyna có cảm giác – cô ấy nói cô ấy nên thử mộtmình. Có lẽ nó chỉ có thể trò chuyện với các cô gái. cô ấy một mình đi đến chổ linh hồn kia và đúng thật, nó đã nói chuyện với cô ấy.”
Mọi người đợi chờ.
“Nó đã nói gì?” Annabeth hỏi.
“Reyna không kể tớ biết,” Jason thừa nhận. “Nhưng nó chắc hẳn rất quan trọng. cô ấy dường như…đãrun sợ. Có lẽ cô ấy nhận được một lời tiên tri hoặc tin xấu. Reyna không bao giờ tỏ ra như thế trước mặt tớ sau lần đó nữa.”
Annabeth cân nhắc. Sau những trải nghiệm của họ với các eidolon, cô không thích ý nghĩ tiếp cận mộtcon ma, đặc biệt là khi nó mang lại cho người ta tin xấu hay những lời tiên tri. Mặt khác, mẹ cô là nữ thần của tri thức và tri thức là một thứ vũ khí quyền lực nhất. Annabeth không thể từ chối các nguồn thông tin khả thi.
“Cuộc phiêu lưu của con gái, sau đó,” Annabeth nói. “Piper và Hazel có thể đi cùng tớ.”
Cả hai cùng gật đầu, mặc dù Hazel trông khá lo lắng. không nghi ngờ gì khi cuộc sống ở Địa ngục cho cô đủ những trải nghiệm về các hồn ma ở cả hai cuộc đời. Mắt Piper lóe lên bướng bỉnh, như mọi thứ Reyna có thể làm thì cô cũng làm được.
Annabeth nhận ra sáu người trong số họ đã có mặt trong hai nhiệm vụ, nên điều đó có nghĩa là Percy sẽphải ở lại trên tàu một mình với HLV Hedge, đó không phải việc mà một cô bạn gái chu đáo nên làm. côcũng không muốn phải rời tầm mắt khỏi Percy lần nữa__sau khi họ đã xa nhau hàng tháng trời. Mặt khác, Percy trông có vẻ rối bời sau khi thấy những sinh vật biển bị giam cầm, cô nghĩ có lẽ cậu nên nghỉ ngơi. cô bắt gặp ánh mắt cậu, im lặng hỏi cậu. Cậu gật đầu như muốn nói, Được mà. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.
“Vậy, mọi chuyện đã ổn thỏa.” Annabeth quay sang Leo, người đang nghiên cứu giao điện điều khiển của mình, lắng nghe Fetus kêu cót két và nhấn vào hệ thống liên lạc. “Leo, còn bao lâu nữa thì chúng ta đến Charleston?”
“Câu hỏi hay đấy,” Leo thì thầm. “Fetus đã phát hiện ra một nhóm lớn đại bàng đang theo sau chúng ta – là loại có rada tầm xa, nhưng chúng ta vẫn chưa rơi vào tầm nhìn của chúng.”
Piper dựa vào bàn điều khiển. “Cậu có chắc đó là người La Mã không?”
Leo đảo mắt. “không, Pipes. Chúng có thể là nhóm các con đại bàng khổng lồ tình cờ bay theo đội hình hoàn hảo. Ôi trời, dĩ nhiên đó là người La Mã! Tớ nghĩ chúng ta nên quay tàu lại và đánh nhau…”
“Đó là một ý tồi.” Jason nói, “và không tháo gỡ được bất cứ nghi ngờ nào về việc chúng ta là kẻ thù của người La Mã.”
“Hoặc tớ có ýn khác,” Leo nói. “Nếu chúng ta đi thẳng đến Charleston thì sẽ mất vài tiếng đồng hồ. Nhưng đám đại bàng kia sẽ bắt kịp chúng ta và mọi chuyện sẽ trở nên rắc rối. Thay vì vậy, chúng ta nên nhử mồi để bẫy chúng. Còn chúng ta sẽ đi đường vòng đến Charleston và có lẽ đến đó vào sáng hôm sau__”
Hazel định kháng nghị, nhưng Leo đã giơ tay ngăn lại. “anh biết. anh biết. Nico đang gặp nguy hiểm và chúng ta phải nhanh lên.”
“Hôm nay là ngày 27 tháng 6,” Hazel nói. “Sau hôm nay thì còn bốn hôm nữa. Nó sẽ chết.”
“anh biết! Nhưng chỉ có cách này để cắt đuôi bọn La Mã. Chúng ta vẫn còn đủ thời gian để đến Rome.”
Hazel giận dữ. “Khi anh nói vẫn còn đủ…”
Leo nhún khinh thường. “Vậy chỉ còn vừa đủ thì thế nào?”
Hazel úp tay lên mặt và đếm đến ba. “Nghe có vẻ chúng ta chỉ còn cách đó.”
Annabeth quyết định coi đó như mà một dấu hiệu đèn xanh. “Được rồi, Leo. Loại mồi nhử cậu đang nóiđến là gì?”
“Tớ rất vui khi cậu hỏi!” Cậu nhấn mấy cái nút trên bàn điều khiển, xoay bàn xoay và liên tục nhấn nút A trên cái điều khiển Wii. Cậu gọi qua hệ thống liên lạc, “Buford? Vui lòng báo cáo nhiệm vụ.”
Frank lùi một bước. “Còn có người khác trên thuyền sao? Buford là ai?”
một làn hơi nước bắn ra từ cầu thang và bàn tự động của Leo trèo lên boong.
Annabeth không thấy Buford mấy trong suốt chuyến đi. Nó hầu như toàn ở phòng động cơ. (Leo khẳng định Buford có một sự say mê bí mật với động cơ.) Nó là một chiếc bàn ba chân với mặt bàn gỗ gụ. Chân đế đồng của cậu ta có nhiều ngăn kéo, bánh răng quay và một bộ các lỗ thông hơi. Buford đangmang một cái túi như bao tải thư buộc vào một chân nó. Nó ồn ào vào khoang máy và tạo âm thanh như tiếng còi xe lửa.
“Đây là Buford,” Leo giới thiệu.
“Cậu đặt tên cho đồ gỗ sao?” Frank hỏi.
Leo khịt mũi. “Cậu trai, cậu chỉ ước có được món đồ gỗ tuyệt vời đến thế là cùng. Buford, cậu đã sẵn sàng cho Chiến dịch Bàn đèn[3] chưa?”
Buford phụt hơi nước. Nó bước đến chỗ rào chắn. Mặt bàn gỗ gụ của nó chẻ thành bốn lát kéo dài ra thành các phiến gỗ. Các phiến gỗ quay và Buford cất cánh.
“một bàn trực thăng,” Percy lẩm bẩm. “Phải thừa nhận nó thật tuyệt. Có gì trong túi đó?”
“Quần áo dơ của á thần,” Leo nói. “Tớ hy vọng cậu không phiền, Frank.”
Frank nén giận. “Cái gì?”
“Nó sẽ ngăn lũ đại bàng đánh hơi thấy chúng ta.”
“Đó là mấy cái quần duy nhất của tớ còn lại đấy.”
Leo nhún vai. “Tớ đã bảo Buford giặt chúng và gấp lại khi cậu ấy đi. Hy vọng cậu ấy sẽ làm thế.” Cậu xoa tay và nhe răng cười. “À! Tớ phải gọi hôm nay là một ngày tốt lành. Tớ sẽ tính toán lộ trình đường vòng của chúng ta. Gặp lại các cậu vào bữa tối!”
Percy đã rời đi sớm, để lại Annabeth với buổi chiều nhàn rỗi không có việc làm ngoại trừ nhìn chằm chằm vào máy tính của cô.
Tất nhiên cô mang laptop của Daedalus bên mình. Hai năm trước, cô thừa kế cái máy từ nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại và nó có những ý tưởng phát minh, những sơ đồ và biểu đồ Annabeth đang cố gắng để tìm hiểu hết. Sau hai năm, một laptop thông thường sẽ xuống cấp, nhưng Annabeth phát hiệnmáy tính của Daedalus vẫn còn thời hạn năm mươi năm trước khi xuống cấp. Nó có thể mở rộng ra thành một laptop với kích thước đầy đủ, thu nhỏ thành một máy tính bảng, hoặc gấp lại thành mộtmiếng kim loại nhỏ hơn chiếc điện thoại di động. Nó hoạt động nhanh hơn bất cứ máy tính nào mà Annabeth đã từng có, có thể truy cập vào các vệ tinh hoặc chương trình phát sóng của Hephaetus-TV vệ tinh từ Đỉnh Olympus và chạy chương trình đặt-làm mà có thể làm từ bất cứ thứ gì ngoại trừ buộc dây giày. Có lẽ cũng có một ứng dụng cho việc đó, nhưng Annabeth vẫn chưa tìm ra.
cô ngồi trên giường, sử dụng một trong những chương trình cấu hình 3-D của Daedalus để nghiên cứu mô hình đền Parthenon[4] ở Athens. cô luôn khao khát được đến đó, cả Parthenon và Athens, bởi vì côyêu kiến trúc và bởi vì đó là đền thờ nổi tiếng nhất của mẹ cô.
Bây giờ cô sắp thực hiện được điều đó, nếu họ còn sống tới khi đến Hy Lạp. Nhưng càng nghĩ đến dấu hiệu Athena và những truyền thuyết La Mã cổ xưa mà Reyna đã đề cập, cô càng thêm lo lắng.
cô không muốn, nhưng cô nhớ lại cuộc tranh luận với mẹ cô. Thậm chí sau nhiều tuần, những lời ấy vẫn làm cô đau nhói.
Annabeth đã đi tàu điện ngầm trở về từ Upper East Side sau khi thăm mẹ Percy. Trong những tháng dài đằng đẵng khi Percy mất tích, Annabeth đã đi ít nhất một tuần một lần – một phần là để thông báo cho Sally Jackson và chồng của bà, Paul, về cuộc tìm kiếm và một phần bởi Annabeth với Sally cần nhau để cổ vũ tinh thần và thuyết phục người kia rằng Percy vẫn ổn.
Trải qua mùa xuân đặc biệt khó khăn. Lúc đó, Annabeth có lý do tin rằng Percy vẫn còn sống, từ kế hoạch của Hera dường như có liên quan đến việc gửi cậu đến trại La Mã, nhưng cô không thể chắc cậu đang ở đâu. Jason ít nhiều vẫn nhớ đến trại cũ của cậu, nhưng tất cả những phép màu Hy Lạp – thậm chí ngay cả các trại viên nhà Hecate – cũng không thể khẳng định Percy đang ở bất cứ đâu. Cậu dường như biến mất khỏi hành tinh. Rachel, nhà tiên tri Oracle, cũng cố gắng đọc những điều về tương lai và khi cô không thể thấy được nhiều điều, cô vẫn chắc rằng Leo cần phải hoàn thành Argo IItrước khi họ liên lạc với người La Mã.
Tuy nhiên, Annabeth đã dành tất cả thời gian rảnh rỗi để tìm kiếm bất cứ tin tức nào về Percy. cô đãthử trò chuyện cùng các tinh linh tự nhiên, đọc các truyền thuyết về Rome, lần tìm các manh mối trong máy tính xách tay của Daedalus và tốn cả trăm đồng drachma cho thông điệp Iris đến các tinh linh thiện, á thần hoặc các quái vật mà cô đã từng gặp, tất cả đều vô vọng.
Chiều hôm đó, khi trở về từ nhà Sally, Annabeth cảm thấy mệt mỏi hơn bình thường. cô và Sally đãkhóc, sau đó cố gắng vực dậy tinh thần, nhưng các dây thần kinh của họ dường như sờn đi. Cuối cùng Annabeth đã lên tàu điện ngầm Lexington Avenue đi xuống Grand Central.
Có một con đường khác để trở lại khu nội trú trường trung học của cô từ Upper East Side, nhưng Annabeth thích đến ga cuối Grand Central. Thiết kế tuyệt đẹp và không gian rộng thoáng đãng nhắc nhở cô nhớ đến đỉnh Olympus. Tòa nhà Grand làm cô cảm thấy tốt hơn_có lẽ vì ở một nơi cố định khiến cô ổn định hơn.
cô đã qua Kẹo Ngọt Mĩ, cửa hàng kẹo ngọt nơi mẹ Percy từng làm việc và nghĩ đến việc vào trong mua một ít kẹo màu xanh thì thấy Athena nghiên cứu bản đồ tàu điện ngầm trên tường.
“Mẹ!” Annabeth không thể tin được. cô chưa gặp mẹ mình cả tháng trời – kể từ khi Zeus đóng cửa Olympus và cấm tất việc liên lạc với các á thần.
Annabeth đã cố gắng liên lạc với mẹ mình rất nhiều lần bằng mọi cách, cầu xin chỉ dẫn, gửi đi các lời cầu nguyện trong mỗi bữa ăn ở trại. Nhưng cô không nhận được hồi đáp. Giờ Athena đã ở đây, mặc quần jeans, giày leo núi và áo sơ mi caro màu đỏ, mái tóc đen của bà đổ xuống vai. Bà mang theo ba lô và một cây gậy cuốc bộ như đã chuẩn bị cho hành trình dài.
“Ta phải về nhà,” Athena lẩm bẩm, tiếp tục nghiên cứu bản đồ. “Đường xá thật rắc rối. Ta ước gì Odysseus ở đây. Có lẽ ông ấy sẽ hiểu.”
“Mẹ!” Annabeth gọi. “Athena!”
Nữ thần quay lại. Bà dường như không nhận ra cô.
“Đó là tên ta,” nữ thần nói một cách mơ màng. “Trước kia họ cướp thành phố của ta, lấy đi danh tính của ta, khiến ta thành ra thế này.” Bà nhìn quần áo của mình một cách ghê tởm. “Ta phải về nhà.”
Annabeth bước lùi lại vì sốc. “Bà…bà là Minerva?”
“Đừng gọi ta như thế!” Đôi mắt xám của nữ thần lóe lên giận dữ. “Ta từng mang theo cây thương và tấm khiên. Ta nắm giữ chiến thắng trong lòng bàn tay. Ta đã làm được nhiều hơn thế.”
“Mẹ.” Giọng Annabeth run rẫy. “Là con, Annabeth. Con gái của mẹ.”
“Con gái của ta…” Athena lặp lại. “Phải, con ta sẽ trả thù cho ta. Chúng sẽ phải hủy diệt La Mã. Khủng khiếp, nhục nhã, hãy làm như tụi La Mã. Hera cho rằng chúng ta nên giữ hai trại ở xa nhau. Ta nói, không, để chúng đánh nhau. Để con cái của ta tiêu diệt những kẻ xâm lược.”
Nhịp tim của Annabeth đập vào tai cô. “Người muốn thế? Nhưng người rất khôn ngoan. Người hiểu tác chiến tốt hơn bất cứ__”
“Từng là như thế!” Vị nữ thần nói. “Bị thay thế. Bị tước đoạt. Bị cướp giật như một chiến lợi phẩm và bị mang đi__xa khỏi quê hương yêu dấu. Ta đã mất quá nhiều thứ. Ta thề sẽ không bao giờ quên. Kể cả con cái của ta nữa.” Bà chú ý vào Annabeth. “Ngươi là con gái của ta?”
“Vâng.”
Nữ thần lấy thứ gì đó từ trong túi áo sơ mi – một huy hiệu lỗi mối của tàu điện ngầm – và ấn vào tay của Annabeth.
“Lần theo dấu hiệu Athena,” Vị nữ thần nói. “Trả thù cho ta.”
Annabeth nhìn vào đồng xu. Ngay lúc đó, nó biến đổi từ huy hiệu tàu điện ngầm New York thành đồng bạc drachma cổ, loại mà người Athen đã từng sử dụng. Nó có hình một con cú, con vật linh thiêng của Athena, với hình cây ôliu trên một mặt và dòng chữ Hy Lạp ở mặt bên kia.
Dấu hiệu Athena.
Vào lúc đó, Annabeth không hiễu ý nghĩa của nó. cô không hiểu tại sao mẹ cô lại hành động như vậy. Như Minerva hay ai khác, bà không thể bối rối như vậy.
“Mẹ…” cô cố gắng khiến giọng của mình trở nên hợp lí nhất có thể. “Percy đang mất tích. Con cần sựgiúp đỡ của mẹ.” cô bắt đầu giải thích kế hoạch Hera kết hợp hai trại để chiến đấu với Gaea và lũ khổng lồ, nhưng nữ thần chống cây gậy cuốc bộ lên nền đá cẩm thạch.
“không bao giờ!” Bà nói. “Bất kì ai giúp La Mã đều phải bị tiêu diệt. Nếu ngươi nhập bọn với chúng, ngươi sẽ không phải là con ta. Ngươi đã làm ta thất vọng.”
“Mẹ!”
“Ta không quan tâm đến Percy này nọ gì hết. Nếu hắn đã về phe người La Mã thì cứ để hắn bị tiêu diệt. Giết hắn. Giết tất cả lũ La Mã. Tìm dấu hiệu, theo nó tìm tới tận nguồn căn. Chứng kiến người La Mã đãlăng mạ ta như thế nào và hứa là phải báo thù cho ta.”
“Athena không phải là nữ thần báo thù.” Móng tay của Annabeth đâm vào lòng bàn tay. Đồng xu trong tay cô dường như ấm hơn. “Percy là tất cả với con.”
“Và trả thù là tất cả mọi thứ đối với ta,” Nữ thần tức giận. “Ai trong chúng ta khôn ngoan hơn?”
“Mẹ có điều gì rất lạ. Chuyện gì đã xảy ra?”
“Rome có chuyện!” Nữ thần nói một cách cay đắng. “Nhìn những gì chúng đã làm xem, tạo ra một ta người La Mã. Chúng ước sao ta là thần của chúng? Rồi đây hãy bắt chúng nếm mùi đê tiện của chúng. Giết chúng, con gái.”
“không.”
“Thế thì ngươi sẽ không còn là gì nữa.” Nữ thần quay nhìn bản đồ tàu điện ngầm. Biểu tình của bà mềm mỏng hơn và trở nên bối rối, không tập trung. “Nếu ta có thể tìm được lộ trình…đường về nhà, sau đó có lẽ__Nhưng, không. Trả thù cho ta hoặc cứ mặc ta. Ngươi không còn là con ta nữa.”
Mắt của Annabeth đau nhức. cô đã nghĩ hàng ngàn điều kinh khủng muốn nói nhưng cô không thể. côđã quay người và chạy đi.
cô đã cố vứt đồng bạc ấy đi, nhưng nó lại xuất hiện trong túi của cô, giống như thanh Thủy Triều của Percy. không may là đồng drachma của Annabeth không có sức mạnh phép thuật__hầu như vô dụng. Nó chỉ toàn làm cô mơ thấy ác mộng và kệ cô cố gắng thế nào cũng không thoát được khỏi nó.
Giờ đây, ngồi trong khoang mình trên tàu Argo II, cô có thể cảm nhận đồng xu trở nên nóng hơn trong túi. cô nhìn chằm chằm vào mô hình đền Parthenon trên màn hình vi tính và nghĩ đến cuộc cãi vã với Athena. Chuyện vài ngày trước xoáy vào đầu cô: một người bạn tài giỏi sẵn sàng đợi cô tới. không ai tìm được bức tượng đó. Con gái của trí tuệ đi một mình.
cô lo sợ mình dường như đã hiểu được hết ý nghĩa của chúng. cô cầu nguyện các vị thần mong mình đãsai.
Cái gõ cửa khiến cô giật mình.
cô hy vọng người đó là Percy, nhưng thay vào đó Frank Trương thò đầu vô.
“Ừm, xin lỗi,” cậu nói. “Mình có thể_?”
cô có chút bất ngờ khi thấy cậu, phải mất một lúc sau cô mới nhận ra cậu muốn đi vào.
“Chắc rồi,” cô nói. “Cậu vào đi.”
Cậu bước vào trong, nhìn xung quanh khoang. Chẳng có gì nhiều để xem. trên cái bàn đặt cạnh đống sách, một tờ báo, một cây viết và một tấm ảnh bố cô đang bay với chiếc máy bay hai tầng Sopwith Camel, cười toe toét và giơ thẳng ngón cái. Annabeth thích tấm ảnh đó. Nó gợi nhớ đến quãng thời gian cô cảm thấy gần gũi ông nhất, khi ông tấn công đội quân quái vật với súng máy bắn đạn Đồng Thiên Thai chỉ để bảo vệ cô__món quà tốt đẹp nhất mà một đứa con gái mong đợi.
Treo trên tường là chiếc mũ lưỡi trai New York Yankees của cô, một món quà từ mẹ cô. Nó có khả năng khiến người đội trở nên vô hình. Từ sau cuộc cãi vã giữa cô và Athena, cái mũ mất đi phép màu của nó. Annabeth không chắc tại sao, nhưng cô vẫn luôn mang nó theo trong nhiệm vụ. Mỗi buổi sáng cô đều cố thử, hy vọng nó trở lại như cũ. Nhưng nó chỉ làm cô nhớ đến cơn thịnh nộ của mẹ mình mà thôi.
Thêm nữa, khoang của cô không cầu kì. cô chỉ giữ cố sạch sẽ và đơn giản để giúp cô suy nghĩ tốt hơn. Percy không tin điều đó vì cô luôn làm mọi thứ hoàn hảo, nhưng như hầu hết các á thần, cô mắc chứng ADHD. Khi mọi thứ quá rối mắt trong không gian cá nhân, cô chẳng bao giờ có thể tập trung.
“Vậy…Frank,” cô hỏi. “Tớ có thể giúp gì cho cậu?”
Trong số những người trên tàu, Frank là người mà cô chả mấy nghĩ tới là có khả năng sẽ tìm gặp cô. côkhông cảm thấy ít bối rối hơn khi cậu đỏ mặt và lôi cái khóa tay ra khỏi túi.
“Tớ không thích phải mù mờ về nó như thế này,” cậu nói khẽ. “Cậu có thể chỉ cho tớ cái mẹo không? Tớ cảm thấy không thoải mái khi hỏi người khác.”
Annabeth xử lý lời nói của cậu một cách chậm chạp. Chờ đã…Frank đang nhờ cô giúp đỡ? Sau đó mọi chuyện dường như sáng tỏ: dĩ nhiên, Frank đang xấu hổ. Leo đã chọc cậu khá đau. không ai thích bị biến thành trò cười. Biểu hiện của Frank như muốn nói cậu không bao giờ muốn chuyện đó xảy ra lần nữa. Cậu muốn biết cách giải quyết, mà không cần đến giải pháp con cự đà.
Annabeth cảm thấy một chút kính phục. Frank tin cô không biến cậu thành trò hề. Hơn thế nữa, cô sẽchỉ dẫn cho tất cả những ai muốn tìm hiểu kiến thức – thậm chí những thứ đơn giản như khóa tay Trung Quốc.
cô vỗ nhẹ lên chiếc giường cạnh mình. “Tất nhiên rồi. Ngồi đi.”
Frank ngồi ngay sát mép nệm, như chuẩn bị cho cuộc đào thoát chóng vánh. Annabeth cầm lấy cái khóa tay và đặt chúng cạnh máy tính mình.
cô đánh dãy kí tự mệnh lệnh việc quyét bằng tia hồng ngoại. Lát sau, một mô hình 3-D về khóa tay Trung Quốc xuất hiện trên màn hình. cô dịch chuyển laptop để Frank có thể nhìn thấy.
“Cậu làm thế nào vậy?” Cậu ngạc nhiên.
“Công nghệ Hy Lạp tiên tiến cổ xưa,” cô nói. “Được rồi, nhìn này. Cấu trúc là một bím hai trục hình trụ, vì thế nó có khả năng đàn hồi xuất sắc.” cô thao tác hình ảnh để nó ép vào trong rồi dãn ra ngoài như cây đàn xếp. “Khi cậu cho các ngón tay của cậu vào trong, nó sẽ lơi lỏng ra. Nhưng khi cậu cố rút ra, chu vi của nó sẽ co lại như cái bím bện lại và thắt chặt. sẽ không có cách nào tháo ra nếu cứ vật lộn với nó.”
Frank ngây ngô nhìn chằm chằm vào cô. “Nhưng tháo ra thế nào?”
“À…” cô cho cậu thấy một vài phép toán – làm sao cái khóa tay có thể chịu đựng được một lực mạnh thế được hả, là do chất liệu được sử dụng trong các mối bện. “Khá tuyệt cho một cấu trúc dệt đúng không? Các bác sĩ dùng nó trong phương pháp kéo giãn chân tay và co cơ điện_”
“Ừ, nhưng mà tháo ra?”
Annabeth cười. “Cậu không thể chiến đấu chống lại cái khóa tay. Cậu chỉ cần nhấn ngón tay vào trong, không phải ra ngoài. Các mối bện sẽ lỏng ra.”
“Ồ.” Frank làm thử. Thành công. “Cám ơn, nhưng…cậu có thể chỉ cho tớ về cái khóa tay mà không cần chương trình 3-D và các phép toán không?”
Annabeth do dự. Đôi khí sự khôn ngoan đến từ những thứ khác lạ, thậm chí đến từ cậu thiếu niên cá vàng khổng lồ này. “Tớ nghĩ là cậu đúng. Ngốc thật. Tớ cũng sẽ học theo.”
Frank thử mở cái khóa tay một lần nữa. “thật dễ khi cậu biết cách giải quyết.”
“Hầu hết các loại bẫy tốt nhất đều khá đơn giản,” Annabeth nói. “Cậu chỉ cần suy nghĩ về nó và mong các nạn nhân của cậu thì không.”
Frank gật đầu. Cậu dường như không có ý định rời đi.
“Cậu biết không,” Annabeth nói, “Leo không cố ý cợt nhả thế đâu. Cậu ấy chỉ hơi to mồm thôi. Khi có người làm cậu ấy lo, cậu ấy sử dụng khiếu hài hước như một kiểu phòng vệ.”
Frank nhíu mày. “Tại sao tớ lại làm cậu ấy lo lắng?”
“Cậu to gấp đôi cậu ấy. Cậu có thể hóa rồng.” Và Hazel thích cậu, Annabeth nghĩ, mặc dù cô không nóira.
Frank có vẻ không bị thuyết phục. “Leo có thể triệu hồi lửa.” Cậu xoắn cái khóa tay. “Annabeth…có khi, cậu có thể giúp mình giải quyết những vấn đề khác không đơn giản thế này thôi không? Tớ có…Tớ đoán cậu gọi nó là ‘gót chân’ Achilles.”
Annabeth cảm giác như cô vừa uống socola nóng của người La Mã. cô chưa bao giờ cảm nhận được sựấm áp và mơ hồ nhưng Frank đã cho cô cảm giác đó. Cậu là một con gấu bông siêu lớn. cô có thể hiểu tại sao Hazel thích cậu. “Tớ rất sẵn lòng,” cô nói. “Có ai khác biết về chuyện ‘gót chân’ Achilles không?”
“Percy và Hazel,” Cậu nói. “không còn ai khác. Percy…cậu ấy gã trai tốt. Tớ sẽ theo cậu ấy đến bất cứ nơi nào. Tớ nghĩ là cậu nên biết.”
Annabeth vỗ nhẹ vào cánh tay cậu. “Percy luôn biết cách để chọn những người bạn tốt. Như cậu. Nhưng, Frank, cậu có thể tin tưởng bất cứ ai trên tàu. Kể cả Leo. Chúng ta là một đội. Chúng ta phải tin tưởng nhau.”
“Tớ – tớ cũng nghĩ thế.”
“Vậy điểm yếu mà cậu lo lắng là gì?”
Tiếng chuông báo bữa tối reo vang và Frank nhảy dựng lên.
“Có lẽ…có lẽ lát nữa,” cậu nói. “thật khó để nói về nó. Nhưng cám ơn, Annabeth.” Cậu cầm cái khóa tay Trung Quốc lên. “Cứ nghĩ thật đơn giản thế thôi.”
[1] đã có ở chương trước, là roundhouse kick
[2] Cự đà xanh: Cự đà xanh có tên khoa học là Cyclura lewisi, là phân loài của thằn lằn Iguana Cuba. Vì thế, chúng còn được gọi là Iguana xanh. Chúng là loài đặc hữu của đảo Grand Cayman, Vương quốc anh.Loài cự đà xanh có trọng lượng trưởng thành 15kg. Chiều dài cơ thể 1,5m. Tuổi thọ của chúng khá lớn, đến 60 năm. đã từng ghi nhận một con cự đà sống tới 69 tuổi.Vào năm 2001, các nhà khoa học thống kê và giật mình khi chỉ phát hiện được 5 cá thể cự đà xanh trên hòn đảo xinh đẹp này. Loài cự đà xanh có nguy cơ biến mất khỏi trái đất trong tương lai gần. Khi đó, nhiều nhà khoa học đã đưa ra cảnh báo rằng, chúng sẽ biến mất khỏi trái đất vào thập kỷ thứ 2 của thế kỷ 21.
[3] End Table, bàn nhỏ để đèn ngủ, sách báo, đồ uống, đồ ăn nhẹ, điểm tâm
[4] Parthenon
Parthenon (tiếng Hy Lạp: Παρθενών) là một ngôi đền thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ 5 trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại, và đã được ca ngợi như là thành tựu của kiến trúc Hy Lạp. Các điêu khắc trang trí của ngôi đền bằng từ đá cẩm thạch (marble) trắng, được coi như là đỉnh cao của nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Đền Parthenon là biểu tượng của sự kết thúc Hy Lạp cổ đại và của nền dân chủ Athena, và được đánh giá như là mộttrong những công trình văn hóa vĩ đại nhất thế giới.